Chuyển đến nội dung chính

Chinh Phụ Ngâm Khúc



(Bồ Câu Lãng Mạn sưu tầm và biên soạn)

Chinh Phụ Ngâm Khúc được Ðặng Trần Côn tiên sinh sáng tác bằng chữ Nho nói lên tâm sự của một người vợ có chồng đang dong ruổi nơi biên thùy trong thời loạn lạc. Cái hoài bảo chờ chồng, cái cô đơn lạnh lẽo, cái lòng nhớ thương và mong chờ ngày trở về trong chiến thắng vinh quang được tác giả đưa vào một áng thơ làm rung động lòng người.

Chinh Phụ Ngâm Khúc, vì nguyên tác là một bản bằng chữ Nho, viết theo thể thơ Trường Ðoản Cú nên không được phổ thông trong dân gian. Nhưng áng thơ này lại rất phổ thông trong bản diễn dịch ra chữ Nôm của Hồng Hà nữ sĩ Ðoàn Thị Ðiểm (người cùng thời với tác giả).
Bà Ðoàn Thị Ðiểm đã đem Chinh Phụ Ngâm Khúc vào lòng dân gian bằng bảng dịch ra chữ Nôm bằng thể thơ song thất lục bát dài 412 câu mà hầu hết ai cũng đã có dịp đọc qua.

Tiểu sử Ðoàn Thị Ðiểm
Ðoàn Thị Ðiểm, dịch giả khúc Chinh Phụ Ngâm, hiệu là Hồng Hà nữ sĩ, sinh vào đầu thế kỷ thứ 18, đời Hậu Lê.

Hồng Hà nữ sĩ là người làng Hiếu Phạm huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, em gái ông Tiến sĩ Tuyết Am Ðoàn Luân.

Kén chồng mãi tới năm 30 tuổi, bà mới lấy lẽ ông Tiến sĩ Hạo Hiên Nguyễn Kiều đương tại chức Thượng Thư. Ông là người huyện Từ Liêm, nay là phủ Hoài Ðức, Hà Ðông. Ông bà gặp nhau trong văn chương nên kính đãi nhau thật là tương đắc và thường có những cuộc nhàn đàm ngâm vịnh cùng các bậc văn hữu đồng thời.

Tư chất rất thông minh, ngay khi mới sáu, bảy tuổi bà đã làu thông kinh sử. Ðến năm 15 tuổi, tiếng tăm bà bất đầu lừng lẫy trên văn đàn nước nhà. Một áng Chinh Phụ Ngâm diễn nôm cũng đủ nói hết sự nghiệp văn chương của bà lỗi lạc đến bực nào.

Bất luận thơ phú, đối trướng, bà làm rất nhanh và tài tình. Khi mới sáu, bảy tuổi, ông Ðoàn Luân lấy chữ ở Sử ký Hán Cao Tổ ra câu đối:
"Bạch xà đương đạo. Quí bạt kiếm nhi trảm chi" nghĩa là: Con rắn trắng đón đường, ông Quí rút gươm mà chém đấy.

Bà đối ngay:
"Hoàng long phụ châu, Vũ ngưỡng thiên nhi thán viết" nghĩa là: Con rồng vàng đội thuyền, ông Vũ trông trời mà than rằng."Ðều là chữ nguyên văn trong Sử ký mà đối chọi nhau từng chữ."

Lại một hôm, ông Luân xuống ao rửa chân thấy em đương đứng soi gương bèn đọc:
"Ðối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm" nghĩa là: Soi gương vẽ mày; một chấm hóa thành hai chấm. (Tiếng điểm lại là tên bà Ðiểm).

Bà đọc ngay đối lại:
"Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân" nghĩa là: Ðến ao xem trăng, một vầng hiện ra hai vầng (Tiếng luân lại là tên ông Luân).

Có một lần, giữa đường bà gặp ông Nguyễn Công Hãng thi hào nổi tiếng thời bấy giờ. Ông này bèn ra thơ Ðộc Hành nghĩa là đi một mình. Bà ứng khẩu đọc ngay:
"Ðàm luận cổ kim tâm phúc hữu.
"Trung tùy tả hữu cổ quăng thần."

Nghĩa là: Bàn luận chuyện xưa và nay có bạn lòng. Theo hầu bên cạnh có bầy tôi.

Ðến đời vua Lê Tuần Tôn, sứ Trung Hoa sang nước ta. Bà Ðoàn Thị Ðiểm bèn dựng quán bán rượu bên đường. Các cột quán dán chi chít câu đối, trong quán bày la liệt sách vở. Sứ giả thấy lạ vào quán. Sau có ý trêu cô bán hàng bèn đọc câu:
"An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỳ nhân canh": Nước Nam bé một tấc đất chẳng biết có mấy người cày".

Bà đối liền:
"Bắc Quốc chư đại phu, giai do thử đồ xuất": Các vị đại phu nước Bắc ( Trung Hoa) đều do đấy mà ra cả".

Sứ giả thẹn và phục tài cô hàng nước lịch sử của Việt Nam lắm, cũng nhân đó Triều đình và các văn hào thời bấy giờ được các sứ giả Trung Hoa kính nể.

Bà mất năm 1746 tại Nghệ An trên đường theo chồng đi nhậm chức, hưởng thọ có 45 tuổi.
Cuộc đời dù ngắn ngủi bà cũng để lại cho kho tàng văn học nước nhà những thi phẩm được truyền tụng:
Chinh Phụ Ngâm Khúc, Tục Truyền Kỳ, và nhiều văn thơ khác.

Tiểu sử Ðặng Trần Côn
Ðặng Trần Côn tiên sinh, tác giả khúc Chinh Phụ Ngâm ở vào khoảng tiền bán thế kỷ thứ 18, dưới triều vua Dụ Tôn nhà Lê.

Tiên sinh người xã Nhân Mục ( làng Mọc ), huyện Thanh Trì thuộc tỉnh Hà Ðông. Vốn có tư chất thông minh, lại là người hiếu học, thuở thiếu thời cần học, tiên sinh phải làm hầm đọc sách, bởi lệnh chúa Trịnh cấm đốt lửa ban đêm, vì hồi ấy trong nội thành Thăng Long thường xảy ra hỏa hoạn.

Tiên sinh đậu Cử Nhân, làm Huấn Ðạo. Ðến năm 1740, đời Lê Hiển Tông, tiên sinh được thăng bổ Tri Huyện Thanh Oai ( Hà Ðông ), và sau thăng dần tới chức Ngự Sử Ðài.
Tính tình tiên sinh khoáng dật, hồn nhiên. Tiên sinh yên sống cuộc đời tao nhã, lấy sự uống rượu ngâm thơ, hay quảy túi gió trăng, thênh thang du ngoạn cảnh thiên nhiên làm thú vui cuộc đời.

Văn chương tiên sinh thì thật là cao siêu lỗi lạc. Nhất là bài Chinh Phụ Ngâm chẳng những các thi hào trong nước mà đến cả các nước ngoài đều phải kính phục văn tài.

Thi phái đời Hậu Lê đã được tiên sinh dìu dắt trên đường chấn hưng, và kho tàng văn học nước nhà đã được tiên sinh bồi đắp bằng những áng văn quý giá.

Ngoài khúc "Chinh Phụ Ngâm", tiên sinh còn soạn: Tiêu Tương Bát Cảnh, Trương Hàn Tư Thuần Lư, Trương Lương Bố Y, Khấu Môn Thanh, Tiểu thuyết Bích Câu Kỳ Ngộ, và nhiều văn thơ khác, tất cả đều là những tác phẩm giá trị được các bậc thi văn hào truyền tụng.

Chinh Phụ Ngâm
412 câu thơ viết theo thể song thất lục bát, ta có thể chia ra làm 13 phần:

- Phần 1:
Nước nhà đang cơn biến loạn, làm trai phải tạm gác việc nhà để làm bổn phận với đất nước theo tiếng gọi của non sông. Làm gái đành tạm nhận lấy kiếp sống truân chuyên.

1- Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng trên.
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này!
Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt.
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín tầng gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh..
Nước thanh bình ba trăm năm cũ,
Áo nhung trao quan vũ, từ đây;
Sứ trời sớm giục đường mây,
Phép công là trọng, niềm tây sá nào.
Ðường dong ruổi lưng đeo cung tiễn.
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa.
Bóng cờ tiếng trống xa xa,
16- Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.


- Phần 2:
Giờ phút lên đường thân chinh ra biên ải. Người trai vốn giòng hào kiệt, với ý chí kiên cường, quyết đem thân mà trả nợ núi sông.

17- Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt.
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng.
Thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời,
Chí làm trai dậm nghìn da ngựa
Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao,
Giã nhà, đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu
Ngòi đầu cầu, nước trong như lọc,
Ðường bên cầu, cỏ mọc còn non.
Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền
Nước trong chảy, lòng phiền chẳng rửa.
Cỏ xanh thơm, dạ nhớ khó quên.
Nhủ rồi nhủ lại cầm tay.
Bước đi một bước giây giây lại dừng.
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,
Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên san;
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn,
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo.
Săn Lâu lan rằng theo Giới tử;
Tới Man Khê bàn sự Phục Ba.
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
40- Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.

- Phần 3:
Cảnh chia tay ngậm ngùi trong lòng người chinh phụ. Có lẽ người đi ít buồn hơn kẻ ở.

41- Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay!
Hà lương chia rẽ đường này,
Bên đường trông lá cờ bay ngùi ngùi.
Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng dương
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng.
Hàng cờ bay trông bóng phất phơ.
Dấu chàng theo lớp mây đưa.
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.
Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.
Ðoái trông theo đã cách ngăn,
Tuôn mầu mây biếc, trải ngần núi xanh
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hãi trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một mầu.
64- Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

- Phần 4:
Những tháng ngày gian khổ của chinh phu từ khi đi vào nơi gió cát.

65- Chàng từ khi vào nơi gió cát,
Ðêm chăng này nghỉ mát phương nao?
Xưa nay chiến địa nhường bao!
Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu!
Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn,
Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon.
Ôm yên, gối trống đã chồn,
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh.
Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.
Hình khe thế núi gần xa,
Ðứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
Sương đầu núi, buổi chiều như giội,
Nước lòng khe, nẻo suối còn sâu.
Não người áo giáp bấy lâu,
Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ?
Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?
Tưởng chàng rong ruổi mấy niên,
Chẳng nơi Hãn hải thì miền Tiêu quan.
Ðã trắc trở đòi ngàn xà hổ
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong,
Lên cao trông thức mây lồng,
88- Lòng nào mà chẳng động lòng bi thương.

- Phần 5:
Lòng hy sinh của người trai nơi chiến trường rất nhiều ngay cả việc đem thân đền nợ nước, da ngựa bọc thây.

89- Chàng từ sang đông nam khơi nẻo
Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu?
Những người chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây
Nức hơi mạnh ơn dày từ trước;
Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu?
Non Kỳ mộ chỉ trăng treo,
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?
Dấu binh lửa, nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
Phận trai: già ruổi chiến trường,
Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về.
Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ.
Ba thước gươm, một cỗ nhung yên.
Xông pha gió bãi trăng ngàn,
Tên treo đầu ngựa, giáo lan mặt thành.
Áng công danh trăm đường rộn rã,
Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi,
Nỗi lòng biết tỏ cùng ai?
112- Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.

-Phần 6:
Người chinh phụ buồn cho cái kiếp sống cô đơn của mình nhưng trong lòng vẫn chan chứa nỗi hẹn hò của ngày về gặp gỡ.

113- Trong cửa này, đã đành phận thiếp,
Ngoài mây kia, há kiếp chàng vay?
Những mong cá nước vui vầy,
Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
Chàng há từng học lũ vương tôn?
Cố sao cách trở nước non,
Khiến người thôi sớm, thôi hôm những sầu.
Chàng phong lưu đương chừng niên thiếu,
Sánh nhau cùng gian dối chữ duyên;
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên
Quan sơn để cách hàn huyên cho đành?
Thuở lâm hành, oanh chưa bén liễu.
Hỏi ngày về, ước nẻo oanh ca
Nay quyên đã giục oanh già.
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo,
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông,
Nay đào đã quyến gió đông
Phù dung lại đã bên sông bơ xờ.
Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy,
Sớm đã trông nào thấy hơi tăm?
Ngập ngừng lá rụng cành trâm,
Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao.
Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ.
Chiều lại tìm nào có tiêu hao:
Ngập ngừng gió thổi chéo bào
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông.
Tin thường lại người không thấy lại,
Hoa dương tàn đã trải rêu xanh.
Rêu xanh mấy lớp xung quanh,
Sân đi một bước trăm tình ngẩn ngơ!
Thư thường tới, người chưa thấy tới,
Bức rèm thưa lần dãi bóng dương.
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang.
148- Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai?

-Phần 7:
Dù chồng đã đi xa, ngoài biên ải, chinh phụ vẫn làm tròn bổn phận của người ở lại.

149- Thử tính lại diễn khơi ngày ấy.
Tiền sen này đã nẩy là ba.
Xót người lần lữa ải xa,
Xót người nương chốn Hoàng hoa dặm dài.
Tình gia thất nào ai chẳng có,
Kìa lão thân khuê phụ nhớ thương.
Mẹ già phơ phất mái sương,
Con thơ măng sữa, vả đương phù trì.
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
Dạy con đèn sách, thiếp làm phụ thân
Nay một thân nuôi già, dạy trẻ,
Nỗi quan hoài mang mể biết bao.
Nhớ chàng trải mấy sương sao
Xuân từng đổi mới, đông nào có dư!
Kể năm đã ba tư cách diễn
Mối sầu thêm ngìn vạn ngổn ngang,
Ước gì gần gũi tấc gang,
Giãi niềm cay đắng để chàng tỏ hay.
Theo cung Hán thuở ngày xuất giá
Gương lầu Tần, dấu đã soi chung.
Cậy ai mà gửi tới cùng,
Ðể chàng thấu hết tấm lòng tương tư.
Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía,
Ngọc cài đầu thuở bé vui chơi.
Cậy ai mà gửi tới nơi?
176- Ðể chàng trân trọng dấu người tương thân.

-Phần 8:
Vắng tin chồng đã lâu, chinh phụ cảm thấy lòng mình dâng lên nỗi lo âu.

177- Trải mấy xuân tin đi tin lại,
Tới xuân này tin hãy vắng không.
Thấy nhàn luống tưởng thư phong.
Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng.
Gió tây nổi, không đường hồng tiện.
Xót cõi ngoài tuyết quyến, mưa sa.
Màn mưa trướng tuyết xông pha,
Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài.
Ðề chữ gấm phong thôi lại mở.
Gieo bói tiền tin dở còn ngờ.
Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ,
Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai.
Há như ai hồn say bóng lẫn,
Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không.
Trâm cài, xiêm dắt thẹn thùng,
Lệch vừng tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Dạo hiên vắng, thầm gieo từng bước.
Ngoài rèm thưa rủ, thác đòi phen.
Ngoài rèm, thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Ðèn có biết, nhường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương,
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc trời đằng đẵng bấy niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.
Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng,
Lòng này gửi gió đông có tiện,
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên,
Non Yên dù chẳng tới miền.
212- Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời

-Phần 9:
Tâm trạng người chinh phụ trong cảnh đợi chờ quá lâu. Cảnh vật chung quanh không còn là gần gũi với nàng, ngay cả việc trang điểm cho mình.

123- Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ nhung đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.
Sương như búa bổ mòn gốc liễu.
Tuyết nhường cưa xẻ héo cành ngô.
Giọt sương phủ bụi chim gù,
Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi.
Vài tiếng dế, nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên.
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu,
Ðâu xiết kể trăm sầu nghìn não.
Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi,
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa,
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói
Sớm lại chiều, dòi dõi nương song;
Nương song luống ngẩn ngơ lòng.
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
Biếng trang điểm lòng người sầu tủi,
Xót nỗi chàng ngoài cõi trùng quan.
Khác gì ả Chức chị Hằng,
Bến Ngân sùi sụt cung trăng chốc mòng.
Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối,
Mộng ôm đầy, hãy thổi làm cơm.
Mượn hoa, mượn rượu giải buồn,
Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi.
Gõ sênh ngọc mấy hồi không tiếng.
Ôm đàn tranh, mấy phím rời tay;
Xót người hành dịch bấy nay,
Dặm xa thêm mỏi, trắp đầy lại vơi.
Ca quyên ghẹo làm rơi nước mắt,
Trống tiều khua như đốt buồng gan.
Võ vàng đổi khác dung nhan,
253- Khuê ly mới biết tân toan dường này.

-Phần 10:
Chinh phụ mơ thấy mình đi bên chồng khắp mọi nơi. Ðó vẫn là giấc mộng.

153- Nếm chua cay, tấm lòng mới tỏ.
Chua cay này há có vì ai?
Vì chàng, lệ thiếp nhỏ đôi,
Vì chàng, thân thiếp lẻ loi một bề.
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng.
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn,
Duy còn hồn mộng được gần,
Ðêm đêm thường đến Giang tân tìm người
Tìm chàng thuở Dương đài lối cũ.
Gặp chàng nơi Tương phố bến xưa:
Xum vầy mấy lúc tình cờ,
Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân.
Giận thiếp thân lại không bằng mộng
Ðược gần chàng bến Lũng thành Quan.
Khi mơ, những tiếc khi tàn,
Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không!
Vui có một tấm lòng chẳng dứt.
Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi!
Lòng theo nhưng chửa thấy người,
Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe
Trông bến nam, bãi che mặt nước,
Cỏ biếc um, dâu mướt màu xanh.
Nhà thôn mấy xóm chông chênh,
Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.
Trông đường bắc, đôi chòm quán khách,
Rườm rà cây xanh ngắt núi non;
Lúa thành thoi thóp bên cồn,
Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu.
Non đông thấy lá hầu chất đống.
Trĩ xập xòe mai cũng bẻ bai,
Khói mù nghi ngút ngàn khơi,
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương.
Lũng tây chẩy, nước dường uốn khúc,
Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu:
Ngàn thông chen chúc khóm lau,
Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về.
Trông bốn bể chân trời mặt đất;
Lên, xuống lầu thấm thoắt đòi phen;
Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn,
Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc quan.
Gậy rút đất dễ khôn học chước,
Khăn gieo cầu nào được thấy tiên,
Lòng này hóa đá cũng nên,
296- E không lệ ngọc mà lên trông lầu.

-Phần 11:
Chinh phụ có khi cũng mến tiếc tuổi xuân. Sợ tuổi trẻ sẽ qua nhanh mà chồng thì chưa gặp. Không biết chàng có nhớ đến thiếp chăng?

297- Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong
Chẳng hay muôn dặm ruổi giong,
Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng?
Lòng chàng ví cũng bằng như thế,
Lòng thiếp nàp dám nghĩ gần xa;
Hướng dương lòng thiếp như hoa,
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái,
Hoa để vàng bởi tại bóng dương;
Hoa vàng hoa rụng quanh tường,
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần?
Chồi lan nọ trước sân đã hái,
Ngọn tần kia bên bãi đưa hương.
Sửa xiêm dạo bước tiền đường,
Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẫn thờ.
Bóng Ngân hán khi mờ khi tỏ,
Ðộ Khuê triền buổi có buổi không.
Thức mây đòi lúc nhạt nồng,
Chuôi sao Bắc đẩu thôi đông lại đoài.
Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,
Bừng mắt trông sương gội cành khô.
Lạnh lùng thay bấy nhiêu thu,
Gió mây hiu hắt trên đầu tường vôi.
Một năm một nhạt màu son phấn,
Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi:
Xưa sao hình ảnh chẳng rời,
Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương?
Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ,
Thiếp dạo hài lối cũ rêu in.
Gió xuân ngày một vắng tin,
Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì.
Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy,
Trước gió xuân vàng tía sánh nhau;
Nọ thì ả Chức, chàng Ngâu.
Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông.
Thương một kẻ phòng không luống giữ,
Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau;
Thoi đưa ngày tháng ruổi mau,
Người đòi thấm thoắt qua mầu xuân xanh
Xuân, thu để giận quanh ở dạ.
Hợp ly đành buồn quá khi vui.
Oán sầu nhiều nỗi tơi bời,
Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân.
Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước,
E đến khi đầu bạc mà thương.
Mặt hoa nọ gã Phan lang
Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng
Nghĩ nhan sắc đương chùng hoa nở,
Tiếc quang âm lần lữa gieo qua.
Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa!
Gái tơ mấy chốc hóa ra nạ dòng
Gác nguyệt nọ mơ mòng vẻ mặt,
Lầu hoa kia, phảng phất mùi hương.
Trách trời sao để nhỡ nhàng,
352- Thiếp rầu, thiếp lại rầu chàng chẳng quên.

-Phần 12:
Chinh phụ ước mơ mình sống có đôi, chỉ như loài chim muông cũng thấy hạnh phúc lắm rồi, mong rằng mình còn trẻ mãi và luôn gần gũi chồng.

353- Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội?
Cũng dập dìu chẳng vội phân trương.
Chẳng xem chim yến trên rường,
Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau.
Kìa loài sâu hai đầu cùng sánh,
Nọ loài chim chắp cánh cùng bay.
Liễu, sen, là thức cỏ cây,
Ðôi hoa cũng sánh, đôi dây cũng liền.
Ấy loài vật tình duyên còn thế,
Sao kiếp người nỡ để đấy, đây.
Thiếp xin về kiếp sau này,
Như chim liền cánh, như cây liền cành.
Ðành muôn kiếp chữ tình đã vậy,
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau,
Thiếp xin chàng chớ bạc đầu,
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung.
Xin làm bóng theo cùng chàng vậy.
Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên;
Chàng nương vừng nguyệt phỉ nguyền,
372- Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tròn.

-Phần 13 ( kết ):
Biết chồng đã ra đi vì dân vì nước, thì còn gì mong hơn là ngày chinh phu trở về trong khúc ca chiến thắng. Còn gì hạnh phúc hơn khi vợ chồng sum họp và sống trong vinh dự, thái bình với làng, với nước.

373- Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt,
Sức tý dân dường sắt trơ trơ.
Máu Thuyền Vu quắc Nhục Chi,
Ấy thì bữa uống, ấy thì buổi ăn.
Mũi đồng bác đôi lần hăm hở,
Ðã lòng trời gìn giữ người trung.
Hộ chàng trăm trận nên công,
Buông tên ải bắc, treo cung non đoài.
Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải,
Tiếng khải ca trở lại Thần kinh.
Ðỉnh non kia, đá đề danh,
Triều thiên vào trước cung đình dâng công,
Nước Ngân hán việt đồng rửa sạch,
Khúc Nhạc Từ giéo giắt lừng khen.
Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền,
Tên ghi gác Khói tượng truyền đài Lân,
Nền huân tướng đai cân rạng vẻ.
Chữ đồng hưu bia để nghìn đông.
Ơn trên ấm tử, thê phong
Phân vinh thiếp cũng đượm chung hương trời.
Thiếp chẳng dại như người Tô phụ.
Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương.
Khi về đeo quả ấn vàng,
Trên khung cửi, dám rẫy ruồng làm cao.
Xin vì chàng xếp bào cởi giáp,
Xin vì chàng dũ lớp phong sương.
Vì chàng tay chúc chén vàng,
Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng.
Mở khăn lệ, chàng trông từng tấm,
Ðọc thơ sầu, chàng thấm từng câu.
Câu vui đổi lấy câu sầu.
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.
Sẽ rót vơi lần lần từng chén,
Sẽ ca lần ren rén từng thiên
Liên ngâm đối ẩm đòi phen,
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.
Cho bõ lúc xa sầu cách nhớ,
Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình.
Ngâm nga mong mỏi chữ tình,
412- Nhường này âu hẳn tài lành trượng phu.

Nhận xét

  1. bài thật hay nhưng bạn chưa đủ các câu thơ . tổng số câu 408/412 cua ban... tks vì bài viết

    Trả lờiXóa
  2. bài hay nhưng không đủ câu 408/412 của toàn tác phẩm nhưng chỉ có sợ lượt về tác giả và không đủ thông tin ... cảm ơn vì bài viết

    Chúc bạn thành công trong công việc và gia đình...:)

    Trả lờiXóa
  3. bài thật hay nhưng bạn chưa đủ các câu thơ . tổng số câu 408/412 cua ban... tks vì bài viết

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét

Ghi lời nhận xét của bạn vào khung dưới đây. Trong mục "Nhận xét với tư cách", nếu bạn không có các tài khoản Google, Wordpress, ... thì có thể chọn "Tên/Url": Ghi nickname bạn muốn hiển thị và ghi Link bạn muốn giới thiệu với mọi người(blog hoặc website..., bạn có thể bỏ trống phần này). Hoặc nếu bạn muốn ẩn danh thì chọn phần "Ẩn danh" . Sau đó click vào "Đăng Nhận Xét" !
- Đề nghị các bạn không nói tục, nói bậy, dùng những lời lẽ quá khích khi nhận xét. Những trường hợp như vậy mình sẽ xoá ngay.

Bài đăng phổ biến từ blog này

Những lâu đài trên cát

Mặt trời rực rỡ. Trên bờ biển, một cậu bé cắm cúi xúc cát đổ vào chiếc xô nhỏ đặt bên cạnh. Khi chiếc xô đầy cát, cậu bé úp ngược nó xuống mặt cát. Nhấc chiếc xô ra và cậu bé đã có một toà nhà tròn xoay bằng cát. Tuy nhiên, trí tưởng tượng của một cậu bé không chỉ dừng lại ở một ngôi nhà hình tròn. Cậu bé đào những rãnh nhỏ xung quanh ngôi nhà làm hào bảo vệ. Những chiếc nắp chai và vỏ ốc trở thành những người lính gác còn những que kem trở thành cây cầu nối những tòa nhà với nhau. một tòa lâu đài thực sự của một chàng hoàng tử khôi ngô trong truyện cổ tích. Cách đó rất xa, thành phố đông đúc, không khí ồn ào, xe cộ như mắc cửi. một người đàn ông đang làm việc trong văn phòng. Ông xếp lại các chồng giấy tờ trên bàn làm việc, trao đổi vài câu qua điện thoại, rồi lại gõ máy tính. Khuôn mặt ông sáng lên vì đạt được kết quả tốt đẹp: hợp đồng được ký kết và thu nhiều lợi nhuận. Hàng ngày ông đều đến nơi làm việc, lập những kế hoạch, dự đoán tình hình thị trường. Có những người lính gác, có

Kinh nghiệm khi máy X10 bị treo ở Sony Ericsson.

Chuyện là thế này, tính mình hay vọc vạch và nghịch ngợm. Thế là trong một hôm xấu trời : mưa phùn, gió đông, độ ẩm cao, ướt át và bẩn thỉu,....Mình lại vẫn nghịch ngợm như mọi ngày. Thấy trên XDA có Room mới cho X10 thế là vào Xrecovery để cài lại room mới này. Các bước tiến hành vẫn như mọi lần, sau khi format +wide hét mọi thứ : system + cache + data vừa bấm back quay lại home của xrecovery thì ngón tay vô tình chạm vào phím home của máy. Thế là máy reboot lại. Mà mình lại xóa sạch mọi thứ (system +cache+data) rồi còn đâu. Tất nhiên máy ko có hệ điều hành thì sẽ bị treo thôi. Thế là tèn tén ten chỉ hiện lên chữ Sony Ericsson khá là tức mắt. (Kinh nghiệm cho thấy SE nên lập trình một đoạn clip hài hoặc có vài em mặc bikini ở đoạn treo này thì còn cảm hứng hơn) Dự cảm cho thấy chắc cũng chẳng có chuyện gì to tát đâu. Nhưng vừa mới mua máy + kinh nghiệm newbie thì cũng khá lo lắng. Thế là xông xáo hỏi hỏi, đáp đáp loạn lên trong box X10 của tinh tế. Được cái bác khá nhiệt tình và tỏ

Giải Rubik 3x3

1.Giới thiệu: Đây là bài hướng dẫn cực kỳ đơn giản, dựa theo hướng dẫn của Leyan Lo, mình đảm bảo khi học theo hướng dẫn này thì chỉ cần biết đọc là có thể giải được khối rubik 3x3. Trong trường hợp đọc xong vẫn không làm được thì mình khuyên nên tìm những trò khác dễ dễ mà chơi kiểu như nhảy dây, bắn bi hay trốn tìm gì đấy.    Trước khi bắt đầu học, ta cần quy ước một số thứ cho dễ làm việc: - Viên giữa: là viên chỉ có 1 màu, nằm chính giữa các mặt. - Viên cạnh: là viên có 2 màu. - Viên góc: là viên có 3 màu. Trong hướng dẫn này, những phần không quan trọng của khối rubik, tức là những viên không cần quan tâm đến sẽ được tô màu xám, còn những phần quan trọng sẽ được đánh dấu X. - Các ký hiệu: Mỗi mặt của khối rubik sẽ được ký hiệu bởi 1 chữ cái tương ứng: Phải: R Trái: L Trên: U Dưới: D Trước: F Sau: B R L U D F B : xoay các mặt tương ứng 90 độ theo chiều kim đồng hồ. R’ L’ U’ D’ F’ B’: xoay các mặt tương ứng 90 độ ngược chiều